PGS.TS. Đào Thủy Nguyên
Trưởng khoa Ngữ văn
* Báo cáo tại Hội thảo khoa học quốc tế Teacher Traning Curriculum Development - Opprtunities and Challenges (Phát triển chương trình đào tạo giáo viên - cơ hội và thách thức)
** Đăng trên Tạp chí Giáo dục, số 377 (Kì 1 – tháng 3/2016), tr.57 - 59
1. Đôi nét về tầm quan trọng của việc phát triển chương trình đào tạo đại học trong thời kì đổi mới và hội nhập
Phát triển chương trình đào tạo đại học là yêu cầu bức thiết của giáo dục Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay. Từ triết lý giáo dục khoa cử, từ chương với mục tiêu chủ yếu là tiếp cận kiến thức đến triết lý giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, chú trọng tính chất tổng hợp và đa diện của năng lực bao gồm cả kiến thức, kĩ năng và thái độ, chú trọng mối quan hệ gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành, giữa dạy chữ và dạy người….định hướng của giáo dục Việt Nam đang ngày càng đến gần hơn với quỹ đạo của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Nhưng làm thế nào để định hướng giáo dục này trở thành hiện thực? Đó là điều trăn trở của tất cả chúng ta, từ các nhà quản lý giáo dục đến đội ngũ giảng viên đại học và đội ngũ giáo viên phổ thông. Đây là một câu hỏi khó có thể tìm được câu trả lời trong ngày một ngày hai, vì chúng ta đều biết từ lý thuyết đến thực hành, từ nhận thức đến hành động là một khoảng cách không dễ vượt qua, nhất là trong thực tế hiện nay: Ở Việt Nam, giáo dục đại học đang có sự so le với giáo dục phổ thông. Trong khi giáo dục phổ thông liên tục được cải cách (từ 1975 đến nay đã diễn ra 3 lần cải cách) thì giáo dục đại học dường như vẫn yên vị trong một cái khung cứng, ít có sự thay đổi. Tuy nhiên, có đi thì sẽ đến. Còn nhanh hay chậm là tùy vào nội lực của chúng ta. Điều quan trọng là: Chúng ta đã nhận thức được vấn đề và quyết tâm thay đổi.
2. Thực trạng phát triển chương trình ở khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
Theo sự chỉ đạo của Đảng ủy và Ban Giám hiệu trường ĐHSP - ĐHTN về đổi mới chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015, khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm – Đại học Thái nguyên đã nghiên cứu Nghị quyết 29 về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam, Đề án của Chính phủ về Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông và các tài liệu liên quan đến đổi mới giáo dục phổ thông sau 2015… làm cơ sở để xây dựng chương trình đào tạo mới với mong muốn bắt nhịp cùng phổ thông trong đổi mới giáo dục, đào tạo ra các cử nhân sư phạm Ngữ văn kịp thời đáp ứng yêu cầu đổi mới. Quá trình nghiền ngẫm tài liệu giúp chúng tôi có thêm những nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về nhiều nội dung liên quan đến việc phát triển chương trình.
Chúng ta đều biết rằng, trong nhà trường phổ thông môn Văn có vị trí quan trọng hàng đầu. Học Văn là cơ sở giúp học tốt các môn học khác, nhưng trước hết môn Văn trong nhà trường có giá trị tự thân. Môn Văn giúp người học có được năng lực ngôn ngữ: nói và viết mạch lạc, tư duy, lập luận chặt chẽ… Môn Văn góp phần rèn luyện các kĩ năng (mềm và cứng), góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách. Học Văn chính là học cách làm người. Muốn đạt được mục tiêu đó thì dạy Văn không thể là quá trình truyền thụ tri thức một chiều mà phải là quá trình thầy hướng dẫn trò tích cực khám phá các vấn đề của đời sống, hướng tới một cái nhìn nhân văn, nhân bản để biết chủ động chọn cách ứng xử phù hợp trước các tình huống thực tiễn. Chỉ có như thế thì giáo dục qua văn chương mới đáp ứng được yêu cầu phát triển cá nhân, hướng đến các giá trị tri thức và giá trị thẩm mỹ, giá trị nhân văn.
Mục tiêu quan trọng nhất của chương trình Ngữ văn đối với học sinh phổ thông là các kĩ năng giao tiếp. Trong chương trình môn Ngữ văn, mục tiêu giao tiếp được đặt lên hàng đầu vì đó là “đặc trưng cơ bản của môn Ngữ văn và đó cũng là yêu cầu có tính mở đường đối với các mục tiêu khác”. Chương trình coi “trục chính” là việc rèn tập cho người học thành thạo bốn kĩ năng giao tiếp (đọc – viết – nghe - nói, trong đó bao gồm cả năng lực trình bày và tiếp nhận thông tin qua các kênh nghe – nhìn), còn “tiếng Việt và văn học là hai trục bổ trợ” (2), là chất liệu cho việc hình thành kĩ năng giao tiếp.
Theo định hướng tiếp cận năng lực cá nhân, chương trình đào tạo cần phải được thiết kế mềm dẻo, linh hoạt, đáp ứng yêu cầu cá thể hóa. Với người học, tiến trình đào tạo có thể co dãn tùy theo nhu cầu và khả năng của họ với nỗ lực đạt được các năng lực theo chuẩn đầu ra. Trong quá trình này, người học được lựa chọn các môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp, năng lực và sở thích cá nhân …Với người dạy, từ những hoàn cảnh, những điều kiện cụ thể được linh hoạt điều chỉnh chương trình đào tạo trong phạm vi nhất định, được chủ động lựa chọn sử dụng các phương pháp, cách thức giảng dạy khác nhau…nhằm giúp người học đạt được các mục tiêu về năng lực theo chuẩn đầu ra.
Chương trình mở giúp người học phát huy tính năng động và sáng tạo trong học tập, rèn các năng lực tự học, năng lực giao tiếp, năng lực thẩm mỹ, năng lực hiểu biết và phát triển bản thân, năng lực phản biện, năng lực tư duy độc lập…, giúp họ được đối thoại, tranh luận, diễn thuyết một cách chủ động, tự tin... Với chương trình mở, chỉ nên quy định những nội dung mang tính khái quát và những yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng mà học sinh phải đạt được sau khi học xong chương trình; không áp đặt cách chọn lựa tác giả, tác phẩm cụ thể nào mà dành quyền đó cho người dạy và cả người học. Chương trình chỉ hướng dẫn và gợi mở những nội dung khái quát chung, còn việc lựa chọn những nội dung cụ thể sẽ do thầy và trò tự quyết định khi cùng nhau làm việc. Trong dạy học theo chương trình mở cần chú ý tính tương tác nhiều chiều qua trao đổi thảo luận: tương tác giáo viên – học sinh, tương tác học sinh – học sinh, tương tác trong và ngoài lớp học…. Muốn vậy, giáo viên phải biết cách khơi gợi hứng thú và tạo ra môi trường học tập thân thiện có khả năng kích thích đối thoại, tranh luận, kích thích tư duy phản biện để giúp người học tìm ra chân lý đời sống.
Việc xây dựng chương trình mang tính mở hướng đến việc đánh giá năng lực và kĩ năng của học sinh chứ không chú trọng kiểm tra kiến thức và khả năng ghi nhớ. Vì thế cách đánh giá cũng phải thay đổi cho phù hợp. Chủ yếu là tập trung đánh giá năng lực tư duy, kĩ năng đọc viết của người học qua việc vận dụng kiến thức chứ không chú ý đến việc trình bày nội dung kiến thức thuần túy. Văn bản được dùng làm ngữ liệu để kiểm tra không chỉ là tác phẩm văn học mà đa dạng, phong phú, gắn với môi trường học thuật và đời sống thực tế của người học.
Trên cơ sở những nhận thức mới về đòi hỏi của giáo dục phổ thông trong thời kì mới, chúng tôi đã phát triển chương trình đào tạo ngành Ngữ văn với khá nhiều điểm thay đổi so với chương trình cũ:
Thứ nhất: Cấu tạo lại hệ thống môn học. Để giảm áp lực thi cử cho người học, chúng tôi đã giảm số môn học có thời lượng 2 tín chỉ, tăng cường các môn học với thời lượng 3,4,5 tín chỉ. Các học phần trong chương trình đào tạo được rà soát kỹ để không còn có sự trùng lặp giữa các khối kiến thức trong các học phần. Việc xây dựng chương trình mới hướng tới mục tiêu vừa chú trọng đi sâu khai thác các giá trị thẩm mĩ vừa đi sâu khai thác các giá trị nhân văn để vừa đáp ứng tốt yêu cầu giảng dạỵ môn Ngữ văn ở trường phổ thông vừa đáp ứng các yêu cầu liên ngành hoặc mở ra các cơ hội việc làm cho người học (Đặc trưng văn hóa và ngôn ngữ các DTTS; Ngôn ngữ báo chí; Văn học và đời sống; Âm nhạc, nghệ thuật tạo hình với văn học; Văn hóa và phát triển… ).
Thứ hai: Tăng cường nhiều môn học mới. Ở cả hai phần tự chọn và bắt buộc, chúng tôi đều tăng cường nhiều môn học mới. Các học phần cơ bản đã thực sự hướng đến chương trình phổ thông và các hoạt động trải nghiệm thực tế của người học như: Điền dã, sưu tầm văn học dân gian; Dạy học từ Hán Việt ở trường phổ thông; Thực hành viết các kiểu văn bản ở trường phổ thông; …. Các học phần bắt buộc đảm bảo tính hệ thống, toàn diện, trang bị cho người học hầu hết các kiến thức và kĩ năng nền tảng, cơ bản, cần thiết cho người giáo viên tương lai. Các học phần tự chọn ngoài việc cung cấp tri thức mới còn mở rộng theo hướng tích hợp, liên môn, chú trọng hướng dẫn sinh viên cách dạy học đọc - hiểu và thực hành soạn giảng những tác phẩm cụ thể, tăng khả năng thực hành, ứng dụng thực tế nghề nghiệp cho sinh viên (Tiếp cận tác phẩm văn học dân gian theo đặc trưng thể loại; Tích hợp văn hóa trong dạy học tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại; Tiếp cận tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại ở trường phổ thông theo đặc trưng thể loại…).
Thứ ba: Điều chỉnh nội dung và phương pháp tiếp cận. Một số môn học tuy tên môn không thay đổi nhiều nhưng có điều chỉnh nhiều trong nội dung và phương pháp tiếp cận. Nội dung đã giảm đi những kiến thức qúa hàn lâm, chỉ tập trung vào các đơn vị kiến thức cơ bản, đồng thời tăng cường rèn nghề qua các hoạt động thảo luận, thực hành nhằm vừa đảm bảo lượng kiến thức cần thiết, vừa có thời gian thực hành các kỹ năng nghề nghiệp và phát huy năng lực người học.
Thứ tư: Tăng cường rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Chúng tôi đã tăng khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm lên thời lượng tối đa (34 tín chỉ), đồng thời đưa vào các môn học mới thuộc khối kiến thức NVSP nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục như: Phát triển chương trình môn Ngữ văn ở trường phổ thông; Phát triển năng lực dạy học Ngữ văn; Đánh giá trong dạy học Ngữ văn; …Các môn học này chỉ dành rất ít thời gian cho việc dạy lý thuyết mà chủ yếu là thực hành và thảo luận, rèn luyện kỹ năng phát triển năng lực cho người học. Ngay cả các môn học thuộc khối kiến thức ngành cũng đều chú ý tăng cường nội dung tích hợp giữa kiến thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên, chú trọng rèn nghề, hướng dẫn cho người học phương pháp dạy học bộ môn.
Thứ năm: Thay đổi phương pháp giảng dạy. Quan điểm giáo dục “lấy người học làm trung tâm” và “tiếp cận năng lực người học” đòi hỏi giảng viên phải giảm thiểu phương pháp thuyết trình mà vận dụng linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại. Các hoạt động bổ trợ (hoạt động nhóm, rèn luyện kĩ năng thuyết trình, xây dựng các mô hình trò chơi, sân khấu hóa tác phẩm văn học, sử dụng công nghệ thông tin …) được tăng cường nhằm tổ chức, hỗ trợ sinh viên tự lực và tích cực chủ động lĩnh hội tri thức, phát triển các năng lực chung và năng lực riêng của người giáo viên Ngữ văn tương lai như: năng lực giao tiếp; năng lực hợp tác; năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; năng lực tư duy sáng tạo; năng lực nghiên cứu khoa học; năng lực cảm thụ, truyền và kích thích xúc cảm thẩm mỹ ở người học nhằm chuyển hóa các giá trị thẩm mỹ nhân văn từ tác phẩm văn chương vào thực tiễn đời sống; năng lực phát triển chương trình Ngữ văn.… Tất cả các học phần trong chương trình đều được xây dựng theo hướng: giảm nhiều giờ lý thuyết, tăng cường giờ bài tập, thảo luận, thực hành lên từ 30% đến 50%.
Có thể thấy, chưa từng có một lần nào việc làm chương trình của chúng tôi lại được tổ chức một cách bài bản như lần này. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, giữa mong muốn và khả năng vẫn còn là một khoảng cách. Dù đã đi được một bước nhưng chương trình này vẫn còn nhiều điều chưa ổn, chưa thể hài lòng. Nhiều khó khăn cả khách quan và chủ quan cần được tháo gỡ để việc phát triển chương trình giáo dục đại học có điều kiện thực hiện được tốt hơn. Xin đơn cử một vài khó khăn mà chúng tôi gặp phải trong quá trình xây dựng chương trình:
- Chúng tôi không có chuyên gia phát triển chương trình đào taọ theo đúng nghĩa. Chúng tôi hiểu: Chuyên gia là người am hiểu sâu sắc lý thuyết về xây dựng chương trình, am hiểu sâu rộng toàn bộ chương trình giảng dạy đại học của một ngành học. Chuyên gia phải được dành thời gian để chuyên tâm, tập trung tìm hiểu, nghiên cứu, suy ngẫm, đề xuất, thử nghiệm, ứng dụng… để cho ra sản phẩm là một chương trình đào tạo phù hợp với yêu cầu mới. Thực chất, người phát triển chương trình của chúng tôi chỉ là các giảng viên - hàng ngày phải đảm bảo khối lượng và chất lượng công việc của một giảng viên - ngoài thời gian đó mới dành cho việc nghiên cứu phát triển chương trình, mà đây lại là việc vô cùng khó khăn như việc “di rời nghĩa địa” - theo cách nói của một nhà giáo dục – nên khó tránh khỏi những bất cập, lúng túng trong bước đi ban đầu này.
- Đội ngũ giảng viên, những người trực tiếp phát triển chương trình có thể phát hiện và đề xuất những ý tưởng mới, nhưng từ việc đề xuất đến việc thực thi ý tưởng cần có thời gian cho việc chuẩn bị: xây dựng đề cương chi tiết, xây dựng đề cương bài giảng, rồi viết giáo trình… Yêu cầu “ngay” và “luôn” dù biết là chính đáng vì phải theo cho kịp tiến độ đổi mới của phổ thông nhưng quả thực là yêu cầu rất khó đối với chúng tôi, nhất là trong thực tế: Đội ngũ giảng viên trẻ rất đông, họ tuy có bằng cấp cao nhưng vẫn đang trong quá trình tự đào tạo sau khi đã được đào tạo.
- Đây là thời kì “quá độ” của quá trình đổi mới, nhiều ý kiến vẫn còn đang thảo luận chưa đi đến cách hiểu thống nhất, dẫn đến những khó khăn trong việc triển khai thực hiện. Chúng ta dùng khái niệm phát triển chương trình chứ không dùng các khái niệm “xây dựng”, “thiết kế”, “biên soạn”… vì “phát triển” bao gồm cả việc xây dựng, biên soạn một chương trình mới hoặc bổ sung, điều chỉnh một chương trình cũ. “Phát triển” còn bao hàm cả ý nghĩa: đây là một quá trình không có điểm kết thúc mà liên tục hoàn thiện theo yêu cầu mới. Thế nhưng, có ý kiến đề nghị bỏ toàn bộ hệ thống môn học cũ, đưa vào hệ thống môn học mới. Như thế liệu có phù hợp? Hoặc một vấn đề khác cũng khiến chúng tôi rất trăn trở. Đó là, khi phát triển chương trình hướng đến mục tiêu tiếp cận năng lực người học thì mức độ và lượng kiến thức khoa học cơ bản nên đưa vào bao nhiêu là đủ và đưa như thế nào là phù hợp? Với học sinh phổ thông, định hướng không cần xây dựng một nền tảng kiến thức hệ thống, cơ bản, toàn diện về khoa học Ngữ văn là đúng. Thế nhưng, việc có cần thiết phải cung cấp cho sinh viên Đại học Sư phạm Ngữ văn – những nhà giáo tương lai - một nền tảng kiến thức hệ thống, cơ bản, toàn diện hay chỉ chọn lọc một vài nội dung có tính chất gợi dẫn, còn lại thì hướng dẫn cho họ tự đọc…lại là điều cần bàn. Theo chúng tôi, phải căn cứ vào thực tế của sinh viên ta hiện nay mà chuyển dần cách thức đào tạo chứ không nên và cũng không thể duy ý chí và nóng vội được. Có một thực tế mà chúng ta đều biết, dự kiến sau năm 2015 (chúng tôi hiểu là bắt đầu từ năm học 2015 - 2016) ta sẽ có chương trình và sách giáo khoa phổ thông được xây dựng theo định hướng đổi mới. Nhưng bây giờ đã là tháng 8 năm 2015, câu trả lời của những người chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng Đề án đổi mới giáo dục là xin lùi đến năm 2018. Ba năm nữa liệu có hay chưa và chất lượng chương trình đến đâu thì còn là điều chúng ta đang phải chờ đợi trong hi vọng. Vì thế, tiếp tục xây dựng và phát triển chương trình đào tạo đại học theo định hướng đổi mới nhưng không thể đốt cháy giai đoạn mà cần thận trọng từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, trao đổi thảo luận để cùng tìm ra hướng đi phù hợp là điều cần thiết trong giai đoạn hiện nay, vì nó phù hợp với quy luật khách quan của quá trình phát triển.
3. Kiến nghị
Từ thực tế nêu trên, chúng tôi xin có một vài kiến nghị như sau:
- Sau khi các trường đã triển khai xây dựng chương trình mới và có được một chương trình tạm gọi là mới so với chính mình, nên tổ chức Hội nghị các Trường ĐHSP, tạo điều kiện để các Trưởng khoa hoặc Ban Chủ nhiệm khoa của các trường ĐHSP gặp gỡ, trao đổi về khung chương trình trong khoảng thời gian từ 02 đến 03 ngày. Trên cơ sở phân tích chương trình của từng trường cả ưu điểm và nhược điểm, Hội đồng Trưởng khoa sẽ đề xuất một khung chương trình mới với hệ kiến thức mới và hệ phương pháp mới cho toàn bộ các khoa Ngữ văn trong các trường ĐHSP toàn quốc. Trên cơ sở đó, các khoa Ngữ văn của từng trường sẽ lựa chọn lại theo đặc trưng khu vực hoặc thế mạnh của mình để giữ lại khoảng trùng nhau chừng 70%, 30% còn lại sẽ thực hiện theo khả năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm của từng trường. Điều này càng cần thiết khi chúng ta tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ. Việc dạy học theo hình thức tín chỉ sẽ thực sự phát huy được ưu điểm của nó như ở các nước phương Tây khi việc phát triển chương trình đảm bảo tính thống nhất trong quy mô toàn quốc. Nhờ sự thống nhất và đa dạng của chương trình đào tạo giữa các trường ĐHSP trong toàn quốc mà người học ở Thái Nguyên vẫn có thể linh hoạt và chủ động tích lũy vài tín chỉ ở Hà Nội, ở Huế hay ở Thành phố Hồ Chí Minh tùy theo khả năng và sở thích của mình. Nhưng để được như thế thì cũng cần nâng cấp hệ thống quản lý đào tạo của các trường ĐHSP cho tương hợp.
- Quan tâm đến đội ngũ giảng viên: Đội ngũ giảng viên, nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Muốn thực hiện tốt định hướng tiếp cận năng lực người học thì trước hết phải chú ý tới việc tiếp cận và phát triển năng lực người dạy. Người dạy bao nhiêu năm nay đã quen với hệ tư duy cũ, chuyển sang một hệ tư duy mới phải cho họ một thời gian định hình và dịch chuyển. Cần nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức và lương tâm nghề nghiệp; rà soát, đánh giá năng lực thực tiễn của đội ngũ giảng viên; đảm bảo chuẩn nghề nghiệp, chuẩn về trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên. Cùng với việc nâng cao nhận thức về nghề nghiệp, về yêu cầu đổi mới giáo dục trong xu thế đổi mới và hội nhập giúp giảng viên tích cực tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tự đổi mới chính mình… cần có kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên đại học một cách thiết thực và hiệu quả. Đồng thời, cần có chế độ chính sách đãi ngộ về lương, thưởng phù hợp để tạo động lực và hiệu quả làm việc cho họ. Hiện nay, lương giảng viên - nhất là lương giảng viên trẻ - quá thấp, mà áp lực làm việc và học tập lại quá lớn. Vì thế, khó có thể phát huy được năng lực và tâm huyết nghề nghiệp của họ.
Trên đây là một số ý kiến có thể còn rất chủ quan từ góc nhìn cuả một nhà quản lý cấp khoa. Rất mong nhận được sự chia sẻ của các nhà quản lý giáo dục và các đồng nghiệp để công cuộc đổi mới giáo dục của chúng ta ngày càng đến gần hơn với cái đích “căn bản” và “toàn diện”.
Tài liệu tham khảo
1. Chính phủ (2014), Đề án đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
2. Bùi Mạnh Hùng (2011), Để Ngữ văn trở thành môn học phát triển năng lực tư duy. Nguồn: http://tiasang.com.vn, 19/5/2011.
3. Phạm Hồng Quang(2013), Phát triển chương trình đào tạo giáo viên - những vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Đại học Thái Nguyên.
4. Đỗ Ngọc Thống (2012), Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam và hướng phát triển sau 2015. Nguồn: http://nico-paris.com/tin-tuc-304/chuong-trinh-ngu-van-trong-nha-truong--pho-thong-viet-nam-va-huong-phat-trien-sau-2015.vhtm.
5. Hoàng Thị Tuyết (2013), Phát triển chương trình đại học theo cách tiếp cận năng lực – Xu thế và nhu cầu, Tạp chí Phát triển và hội nhập, số 9, tháng 3 - 4/2013.